Xét về cấu tạo, đàn guitar được chia
thành đàn guitar điện, đàn guitar Hawaii, đàn guitar phím lõm, đàn guitar
bass, đàn guitar hai cần, đàn guitar 4 dây, đàn guitar 7 dây, đàn
guitar 12 dây.
Chúng ta sẽ bắt đầu với Đàn Guitar
aucostic
Cây đàn acoustic guitar đã thâm nhập vào
rất nhiều thể loại âm nhạc khác nhau. Bên cạnh vai trò là những nhà solo tuyệt
vời, acoustic cũng đã hòa nhập rất hài hòa với các dụng cụ âm nhạc khác.
Guitar aucostic về cơ bản là nhạc cụ
không dùng điện, khối lượng nhẹ, thường được làm chủ yếu từ gỗ, dễ mang theo
khi di chuyển. Dây đàn được làm chủ yếu từ dây sắt hoặc dây nilon. Đàn guitar
aucostic có khả năng trình diễn ở nhiều thể loại nhạc khác nhau từ cổ điển,
country, jazz cho đến flamenco với tính biểu cảm tuyệt vời.
Guitar
acoustic thường có
-
Phím
đàn hẹp hơn guitar classic
-
Thùng
đàn hơi mỏng hơn classic, phía trên thường có một miếng hình khuyết để trang
trí và tránh làm xướt thùng đàn khi đánh miếng gảy
-
Một số
cây, ở mặt bên trên của thùng đàn còn có chổ để móc dây thiết kế sẵn để móc dây
đeo vào đứng đánhCác biến thể của guitar aucostic
-
Phiên
bản đầu tiên của guitar aucostic là cây đàn guitar cổ điển (classical guitar)
-
Đàn
dây kim loại: được tạo vào khoảng thế kỉ 19. So với classical, điểm khác biệt
lớn nhất là nó được căng dây kim loại và đôi khi thùng đàn to hơn. Cùng với
guitar điện (electric guitar), nó đã trở thành một nhạc cụ cốt lõi trong nhạc
pop.
-
Resonator
guitar: có thân đàn thường được làm từ kim loại. Cách làm này giúp nâng cao âm
thanh để chơi trong dàn nhạc giao hưởng và thính phòng. Nó ra đời ở vùng trung
tâm phía Bắc Mĩ vào khoảng thập niên 1920 và thập niên 1930.
-
Đàn
12 dây: có số dây đàn là 12, gấp đôi một cây đàn bình thường. Cứ mỗi cặp 2 dây
sẽ thể hiện một cao độ. Với cây đàn này một nghệ sĩ có thể thể hiện như 2 người
đang cùng chơi. Do tính chất 2 dây/1 cao độ, tính cộng hưởng là rất cao nên có
ảnh hưởng rất rõ ràng và tích cực tới người nghe.
-
Torres
guitar: được coi là bậc tiền bối trong dòng acoustic guitar hiện đại. Nó có
thân đàn to hơn một chút và rất giống cây đàn classical.
-
Ngoài
ra, ở Việt Nam thì quen chơi đàn thùng. Đàn thùng thì cũng tương tự như đàn cổ
điển, có cái thân rỗng và có lỗ âm thanh. Dây thì thường là sắt bao đồng, dây
cứng hơn loại nylon, và dây đàn được giữ trên mình đàn bằng sáu cái chốt nhựa
hoặc kim loại, chứ không cột lại như đàn nylon.
Classical
guitar
Nhạc
cụ này được chế tạo từ một bản thiết kế vào khoảng 150 năm trước đây. Nó là
loại đàn acoustic guitar có 6 dây nilon, âm thanh phát ra nghe êm dịu. Người ta
sử dụng nhạc cụ này trong nhiều loại thể loại nhạc khác nhau: từ nhạc Tây Ban
nha, folk, jazz cho tới nhạc độc tấu và hòa tấu.
Classical
guitar thuộc bộ dây, âm vực rộng khoảng 3 quãng tám, được chế tạo từ nhiều loại
gỗ khác nhau, có chiều dài xấp xỉ 1 m. Nhạc cụ này phát triển từ thời Trung cổ.
Thời kỳ đầu, nó xuất hiện ở Tây Ban Nha và Ý, giai đoạn ấy nó có hình dáng nhỏ
gọn hơn loại classical guitar ngày nay.
Twelve
string guitar
Là
loại đàn guitar 12 dây, nhiều gấp đôi số lượng dây của loại acoustic guitar
chuẩn mực. Nói cách khác, nó là loại guitar có 6 cặp dây dựa theo loại guitar
thông thường: cặp dây số 1 là nốt Mi; cặp số 2 là nốt Si; cặp số 3 là nốt Sol;
cặp số 4 là nốt Rê; cặp số 5 là nốt La và cặp số 6 là nốt Mi (thấp hơn nốt Mi
của cặp dây số 1 đúng 2 quãng tám).
Twelve
string guitar thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám, được chế tạo từ gỗ, kim
loại và plastic. Đầu thế kỷ 19, người ta đã gắn thêm volume để nhạc cụ này
tăng thêm cường độ âm thanh. Trong ban nhạc, nhiệm vụ của guitar 12 dây là đệm
hợp âm giữ nhịp. Nó phát ra âm thanh khá "chói tai" như thể có 2 cây
guitar cùng được sử dụng một lúc.
Torres
guitar
Nhạc
cụ này là kẻ tiền nhiệm của loại acoustic guitar hiện đại. Nó có những thiết bị
tăng âm nằm trong khuôn đúc hình nan quạt ở cạnh dưới của mặt thân đàn. Những
thiết bị này giúp âm thanh phát ra lớn hơn.
Torres guitar thuộc bộ dây, âm vực rộng 3,5 quãng tám, tổng chiều dài 81cm. Thân
đàn bằng gỗ với 6 dây ruột mèo (gut). Trước năm 1852, nghệ nhân Tây Ban Nha
Antonio de Torres Jurrado đã chế tạo ra nhạc cụ này, do đó nó được đặt tên là
Torres guitar, một loại nhạc cụ đã trở thành chuẩn mực cho loại classical
guitar hiện đại. Torres guitar lớn hơn những loại guitar trước đấy, đặc biệt là
ở phần thân đàn. Về sau, người ta đã tái cấu trúc phần bên trong thân đàn để âm
thanh vang lớn hơn nữa.
Guitar
Hawaii
Guitar
Hawaii có 6 dây nhưng không có phím. Người chơi dùng một thanh (khối) kim loại
(bằng đồng, thép không rỉ...) ở tay trái chặn trên cần đàn để tạo nên các phím.
Độ dài ngắn của đoạn dây đàn bị chặn sẽ tạo ra các nốt. Guitar Hawaii chơi rất
nhiều bồi âm, có rất nhiều bồi âm vì độ dài dây đàn có thể thay đổi được, và
các bồi âm ấy du dương hơn tiếng guitar thông thường.
Tay
phải để gẩy có 1 bộ 4 móng (tương tự móng của người chơi đàn tranh) lắp vào 4
ngón: cái, trỏ, giữa, nhẫn.
Dây
của Guitar Hawaii là dây trơn, không có vỏ bọc cả 6 dây. 6 dây này cũng không
được lên theo các nốt mi, la, rê, sol, si, mi như đàn guitar Tây Ban Nha.
Người
chơi khi diễn tấu thì đặt đàn trên đùi. (Gần giống tư thế của những người chơi
đàn tranh hoặc đàn tam thập lục).
Ở
Việt Nam, nghệ sỹ chơi guitar Hawaii nổi tiếng là Đoàn Chuẩn, Từ Linh.
Pedal
steel guitar
Đây
cũng là một loại Hawaiian guitar. Nhạc cụ này không có thân đàn, nhưng lại có 2
cần đàn (mỗi cần 10 dây) được đóng khung trên một bàn phím. Pedal steel guitar
là loại đàn có nhiều bàn đạp để chỉnh độ cao của các dây. Để tạo ra những nốt
riêng lẻ và các hợp âm, người ta khảy dây và dùng một thanh thép hoặc một ống
lướt nhẹ dọc theo chiều dài của dây.
Pedal
steel guitar có âm vực rộng 6 quãng tám, thân đàn và chân thẳng đứng bằng gỗ
hoặc kim loại. Nhạc cụ này cao 23cm, dài từ 71 đến 91cm. Vào khoảng năm 1830,
người ta mang loại đàn này từ Mexico đến Hawaii, thế rồi nhạc cụ này phát triển
mạnh và trở thành vật đặc trưng của cư dân đảo Hawaii từ thập niên 1940. Joseph
Kekuku (nghệ sĩ Hawaii) là người đầu tiên đã dùng một vật gì đó lướt dọc theo
chiều dài của dây trong lúc khảy đàn để tạo ra âm thanh "nhão". Sau
đó, người ta mới sử dụng một thanh thép hoặc một ống để thay thế dụng cụ này.
Một trong những kỹ thuật phổ biến khi chơi pedal steel guitar là sử dụng các
bàn đạp và đòn bẩy đầu gối để thay đổi độ cao thấp, tạo ra những âm thanh luyến
láy.
Electric archtop guitar
Là
loại đàn archtop guitar truyền thống đã được cải tiến vào cuối thập niên 1930.
Electric archtop guitar thuộc bộ dây, có âm vực rộng trên 3 quãng tám, thân đàn
làm bằng gỗ với 6 dây đàn kim loại. Nhạc cụ này rất thông dụng đối với những
nhạc sĩ chơi nhạc Jazz. Trong thập niên 1940, electric archtop guitar được cải tiến
khá nhiều, kết hợp thêm một cutaway, những bộ cảm ứng âm thanh và một công tắc
chọn độ rung âm thanh (selector switch). Loại đàn này phát ra tiếng êm dịu và
ấm. Nếu gắn thêm những thiết bị điện tử khác, người ta có thể chơi những nốt
riêng lẻ hay tạo thành giai điệu hoặc độc tấu.
Electric
archtop guitar là nhạc cụ gợi ý cho sự phát triển loại guitar điện tử có thân
đàn rắn đặc ngày nay.
Guitar
phím lõm
Lục
huyền cầm hay ghi-ta Việt Nam, guitar phím lõm, ghi-ta vọng cổ hoặc ghi-ta cải
lương là cây đàn được cải biến từ đàn Tây Ban Cầm (guitare espagnole moderne)
do các nghệ sỹ cải lương Việt Nam sáng tạo ra. Từ cây đàn guitar 6 dây ban đầu,
người ta khoét các phím lõm xuống chừng 1 cm, hình bán nguyệt nhằm tạo ra âm
thanh khác biệt, tạo độ ngân rung đặc trưng của ca vọng cổ.
Khi dùng chơi nhạc cổ, guitar phím lõm không dùng dây 6.
Dây
đàn được lên theo âm giai ngũ cung (pentatonic).
Guitar
phím lõm đuợc chủ yếu chơi trong giàn nhạc của cải lương, đờn ca tài tử Nam Bộ.
Guitar
điện
Guitar
điện, về cấu tạo cơ bản, vẫn giống guitar cổ điển. Gồm 3 phần chính: đầu
(machine head), cần (neck) và thân (body).
Điểm
khác biệt chủ yếu của guitar điện nằm ở phần thân đàn. Guitar điện có thân đàn
đặc và phẳng. Vì không có thân đàn rỗng, guitar điện được khuếch âm bằng những
bộ phận cảm ứng từ (pick-ups) nối với các cuộn cảm ứng quấn quanh các lõi
(bobbin) đặt chìm trong thân đàn. Mỗi cây guitar điện có thể có từ một đến 3
pick-ups. Trên thân đàn còn có 2 núm điều chỉnh âm lượng và âm sắc (tone) và lỗ
để cắm dây dẫn (jack) đến ampli. So với đàn gỗ, dây đàn điện có khuynh hướng
mỏng và dẻo hơn.
Ngoài
ra, cần của guitar điện thường có 26 - 28 ngăn, khuynh hướng thường nhỏ dần từ
đầu đàn đến thân đàn.
Guitar
điện thuộc bộ dây, âm vực thấp hơn hoặc bằng 4 quãng tám. Nó là sản phẩm tổng
hợp từ gỗ, kim loại và plastic. Chiều dài của đàn từ 97 cm đến 102 cm.
Ở Mỹ, người ta đã nhiều lần thử nghiệm nhạc cụ này từ thập niên 1920 đến
thập niên 1930. Ban đầu, nó là nhạc cụ acoustic gắn bộ khuếch âm ở thân đàn.
Đến đầu thập niên 1950, Paul Bigsby và sau đó là Leo Fender đã cải tiến thành
đàn guitar rắn đặc với hình dạng như ngày nay ta thường thấy.
Guitar
điện thường được diễn tấu chủ yếu theo phong cách nhạc nhẹ. Tùy vào từng thể
loại, từng dòng nhạc mà guitar điện được chế tạo theo những nét riêng biệt một
cách phù hợp nhất.
Với
người chơi jazz, blues, cây đàn được ưa chuộng là đàn có hai pick-ups kép
(double-coiled pick-ups) tạo ra âm sắc trầm ấm (humbuckle tone). Hoặc với các
rocker, cây guitar có 3 pick-ups đơn (single-coiled pick-ups) tạo nên âm sắc
sắc lạnh đặc trưng luôn là lựa chọn số 1.
Les
Paul Electric guitar
Nhạc
cụ này xuất hiện vào năm 1952. Người ta đã lấy tên của Les Paul, một giutarist
nổi tiếng cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950, để đặt tên cho loại đàn
này. Những mẫu thiết kế đầu tiên của nhạc cụ này do hãng Gibson sản xuất vào
đầu thập niên 1950. Tuy nhiên, trong thời kỳ ấy, nhạc cụ này chưa được phổ biến
rộng rãi nên ít người mua, vì thế hãng Gibson tạm ngưng sản xuất vào năm 1960.
Đến giữa thập niên 1960, nhờ sự chuyển động mạnh của dòng nhạc pop rock nên
nhạc cụ này được phục hồi và trở nên chuẩn mực cho tới ngày nay.
Resonator
guitar
Là
loại đàn aucostic guitar có những đĩa nhôm hình nón gắn bên trong thân đàn để
khuếch đại âm thanh. Nhạc cụ này phát ra âm thanh đủ lớn để nghe trong những
buổi hòa nhạc trực tiếp mà không cần ampli. Resonator guitar và những loại đàn
có gắn thiết bị khuếch âm khác như Dobros và Naitionals xuất hiện lần đầu tiên
trong thập niên 1930. Người ta sử dụng các nhạc cụ này trong những ban nhạc
khiêu vũ, nhạc Jazz và Blue.
Loại
đàn này thuộc bộ dây, âm vực rộng 3 quãng tám. Thân đàn làm bằng gỗ, plastic
hoặc kim loại. Chiều dài của nhạc cụ này từ 1,02 đến 1,07 m.
Les Paul Electric guitar thuộc bộ dây, âm vực rộng trên 3 quãng tám, làm từ gỗ
và có 6 dây đàn bằng kim loại. Nhạc cụ này dài từ 97 đến 102 cm.
Guitar
bass
Guitar
bass có nguồn gốc từ cây đàn contrabass, chịu trách nhiệm bè trầm, nối kết giữa
trống và guitar lại với nhau tạo nên một hoà âm hoàn chỉnh.
Dựa
trên hình mẫu của cây guitar điện, người ta bắt đầu tạo ra cây guitar bass gồm
4 dây (E, A, D, G) bằng kim loại, cần đàn được chia thành các ngăn (từ 22-24
ngăn) với thùng đàn đặc và bộ phận khuyếch âm. Đến năm 1967 thì cây guitar bass
5 dây và 6 dây cũng ra đời và, cho đến nay, đã có loại guitar bass 7 dây. Tuy
nhiên về cấu tạo thì hầu như không có gì thay đổi nữa. Bass điện cũng sử dụng
nhứng đồ nghề giống như guitar điện.
Guitar
bass có âm vực thấp hơn guitar điện. Nhạc cụ này có hai vai trò quan trọng
trong dàn nhạc: phát ra những nốt trầm để hỗ trợ giai điệu chính, và cùng với
trống, nó giữ nhịp để giúp những nhạc cụ khác chơi đúng nhịp điệu chung của ban
nhạc.
Guitar bass thuộc bộ dây, âm vực rộng 3 quãng tám. Nhạc cụ này có chiều dài 1,1
m, được chế tạo bằng vật liệu tổng hợp như gỗ, kim loại và plastic. Guitar bass
do Leo Fender thiết kế lần đầu vào năm 1951. Người ta có thể tạo ra những âm
thanh khác nhau cho từng nốt trên nhạc cụ này bằng cách sử dụng ampli, fuzz
box, hệ thống echo và nhiều loại thiết bị nhỏ khác.
Ngày
nay, cây guitar bass 4 dây xuất hiện phổ biến ở các dòng nhạc jazz, blues, rock
và bán cổ điển.
Guitar
bass không ngăn phím
Guitar
bass không ngăn phím (fretless bass guitar) xuất hiện từ thập niên 1970, được
sử dụng rộng rãi như loại đàn double bass truyền thống. Nhạc cụ này cho phép
bạn lướt nhẹ qua các nốt để thay đổi độ cao thấp của âm thanh. Guitar bass
không ngăn phím phát ra âm thanh phong phú, rất thông dụng với những nhạc công
chơi thể loại jazz và rock fusion.
Đây
là nhạc cụ thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám, được chế tạo từ gỗ, kim
loại và plastic. Chiều dài của nó từ 1,1 đến 1,2 m.
Streinberger
bass guita
Về
cơ bản, Streinberger bass guitar được thiết kế khác biệt so với bất kỳ loại
guitar nào. Thân đàn thường được làm bằng plastic dầy, rắn chắn hơn gỗ của loại
đàn bass truyền thống. Nó phát ra âm thanh thô cứng, rõ ràng. Thân đàn rỗng và
nhỏ, chứa những thiết bị điện tử mà ampli và bộ khuếch âm cho phép tạo ra nhiều
loại âm thanh khác nhau
Streinberger
bass guitar thuộc bộ dây, âm vực khoảng 3 quãng tám. Để chế tạo nhạc cụ này,
người ta sử dụng nhựa aboxit gia cố với carbon và sợi thủy ngân (một loại than
chì). Đây là những chất liệu mới nhất mà Ned Steinberger dùng để chế tạo nhạc
cụ này vào đầu thập niên 1980. Theo các chuyên gia, loại than chì để làm đàn
này đặc gấp 2 lần và cứng hơn 10 lần so với gỗ và lại bền và nhẹ hơn thép.