Hỏi
ra mới biết, ông Công đã bị tai biến mạch máu não,hiện đang ở nhà con trai.
Nhà
anh Vi Đình Hải, contrai ông Công nằm ở cuối bản Chắn. Con đường đến đây vẫn
gập ghềnh, lầy lội nhưnăm nào. Người nghệ nhân chế tác nhạc cụ dân tộc nằm đó,
thân hình đã trở nêntiều tụy, đôi mắt thẫn thờ như đang nhìn vào một cõi xa
xăm.
Nhìn
dáng vẻ của ông hômnay, chúng tôi không khỏi chạnh lòng khi nhớ về cuộc hội ngộ
3 năm trước.
Ngày
ấy, dù đã bước sangtuổi 74 nhưng ông Vi Đình Công vẫn tỏ ra nhanh nhẹn, hoạt
bát. Sau khi dạo quaâm điệu của các loại nhạc cụ dân tộc Thái như khèn bè, sáo,
pí, khèn Mông, ôngkể chúng tôi nghe những câu chuyện cuộc đời và con đường đi
tới danh hiệu Nghệnhân dân gian.
Những
ngày tươi đẹp
Từ
khi còn là cậu bé 5tuổi, Vi Đình Công đã ao ước có được một chiếc khèn bè.
Chiều con trai, bà mẹ đãđổi 2 bế lúa nếp cho một cụ già trong bản để cậu có
chiếc khèn thuộc loại tốtnhất, nhì bản.
Từ
khi có khèn, cậu bé Côngthường tìm đến nhà các cụ già thổi khèn giỏi để học.
Thấy cậu bé họ Vi quá đammê với nhạc cụ cổ truyền, ai cũng hướng dẫn một cách
tận tình, chỉnh giúp cậu từđộng tác cầm khèn, chỉnh âm.
Rồi
chẳng bao lâu sau, nhờchăm chỉ cộng với niềm đam mê và năng khiếu thiên bẩm, Vi
Đình Công trở thànhmột trong những người thổi khèn bè hay nhất bản Chắn. Mỗi
lần lên nương lên rẫyhay ra sông chài cá, cậu bé Công không bao giờ quên mang
theo chiếc khèn để mỗikhi có phút giây ngơi nghỉ là cậu sẽ gửi gắm tâm hồn mình
với núi rừng và connước.
Bước
sang lứa tuổi thanhniên, Vi Đình Công không chỉ thổi khèn hay, mà anh còn học
được cả cách chế táckhèn bè và một số loại nhạc cụ khác.
Các
cụ già ở bản Chắn vẫn còn nhắc lạirằng, ngày đó, mỗi khi Công thổi khèn, con
chim đang bay cũng dừng cánh đậu, concá đang bơi cũng phải ngưng lại giữa dòng
để lắng nghe.
Còn
các cô gái độ tuổi trăng rằm ở bản Chắn, bảnLau, bản Mác... nghe thấy tiếng
khèn, lòng chợt bồi hồi và đôi tay dường như trởnên bối rối. Vì đang gặt lúa
thì lưỡi hái phải dừng, đang đốn củi thì con daokhông vung lên được, đang dệt
vải thì cái thoi không muốn chạy, bước xuống cầuthang thì đôi chân chợt ngập
ngừng...
Nói
cách khác, tiếng khèn của Vi Đình Công đã làmcho trái tim bao cô gái phải thổn
thức và chờ mong. Những đêm trăng sáng, khiCông mang khèn ra thổi tận bãi sông,
trai gái các bản đều tìm đến chung vuitrong tiếng khèn lúc dìu dặt, lúc thiết
tha và có lúc như là tiếng dỗi hờn...
Và
các cô gái thường tranh nhau hát lên câu lăm,câu xuối để Công đệm khèn. Tiếng
khèn của Vi Đình Công không chỉ giới hạn trongcác bản làng của xã Thạch Giám mà
còn vang xa, xa đến tận miền xuôi.
Nhận
thấy tài năng của Vi Đình Công, ngành Vănhóa địa phương đã bổ sung chàng thanh
niên người Thái này vào đội tuyên truyềnvăn nghệ cách mạng.
Ông
theo chân đoàn văn nghệ đi khắp các bản làngmiền Tây để cổ vũ đồng bào các dân
tộc vùng cao tích cực lao động sản xuất, độngviên con em lên đường nhập ngũ để
đánh đuổi bọn Mỹ- Ngụy, giải phóng đất nước,đem lại cuộc sống hòa bình.
Đoàn
văn nghệ đi tới đâu, bản làng đó trở nên vuitươi, phấn khởi. Và người dân các
huyện vùng cao luôn cảm mến một chàng traingười Thái không chỉ chơi hay các
loại nhạc cụ dân tộc mình mà còn giỏi sử dụngcác loại nhạc cụ của dân tộc khác
như dân tộc Mông, Khơ mú và Ơ đu.
Và
cũng tại đây, Vi Đình Công bén duyên với LôThị Khoành, cô gái Thái quê ở xã Nga
My, người chuyên hát các làn điệu dân caThái của đoàn văn nghệ.
Người
ta cho rằng họ thật sự là một đôi uyên ươngtrời sinh, vì người này hát hay,
người kia đàn giỏi. Cảm tài, mến sắc, họ đã nênduyên vợ chồng. Khi chiến tranh
kết thúc, đội văn nghệ hoàn thành nhiệm vụ, vợchồng Vi Đình Công lại trở về bản
Chắn phát nương, làm rẫy và sống cuộc đời bìnhdị nhưng rất đỗi hạnh phúc.
Trở
về với cuộc sống đờithường, vợ chồng ông vẫn không dứt bỏ tiếng khèn, tiếng
hát. Ông vẫn miệt màitruyền dạy cách chế tác và sử dụng khèn bè cho thế hệ sau.
Còn bà say sưa truyềndạy các làn điệu khắp, lăm, nhôn, xuối cho các cô gái trẻ.
Mái
nhà gỗ đơn sơ nhưngkhông lúc nào vắng tiếng khèn, điệu hát. Ông bà được xem là
cặp vợ chồng lưu giữ“kho báu” âm nhạc của dân tộc Thái. Và đó chính là lý do để
Nhà nước quyết địnhtrao tặng ông Vi Đình Công danh hiệu Nghệ nhân dân gian.
Tuổi già cô quạnh
Giờ
đây, ở tuổi 77, qua mấy lần bị tai biến, ông ViĐình Công đã trở thành người
nghễnh ngãng, lúc nhớ lúc quên.
Khi
chúng tôi bước vào nhà, câu đầu tiên ông nói:“Con vợ nó giận ta, nó bỏ ta đi
rồi”.
Chúng
tôi giật mình với ý nghĩ không lẽ bà đã vềMường Then (Mường Trời) trước ông?
Nhưng rồi chị Lê Thị Hương, con dâu ông giảithích: “Bà đang đi chợ, ông ở nhà
nhớ rồi nói thế thôi”.
Nhìn
chúng tôi một lúc từ đầu đến chân, đôi mắtchợt sáng lên, sinh khí chợt hiện lên
nét mặt rồi ông chợt reo lên: “Ta nhớ raanh rồi, anh nhà báo ạ. Mới ở Vinh lên
à? Bạn bè ta ở dưới Vinh nhiều lắm, nhưngchỉ có anh lên thăm ta thôi! Có lẽ cái
chân ta không đi được nữa, cái miệngkhông còn thổi được khèn thì họ không cần
đến ta nũa rồi”.
Ông
với tay lên đầu giường lấy chiếc khèn bè vàđưa lên thổi. Người nghệ nhân già
dường như rướn hết sức bình sinh để dồn chochiếc khèn phát ra âm điệu như ngày
nào.
Nhưng
chiếc khèn vẫn im lặng, không chịu cất lênâm thanh, dù là thứ âm thanh vô
nghĩa. Ông đã sức tàn, lực kiệt... Nhưng ông lạiphân bua: “Cái khèn này bị hư
rồi, ta không thổi được, hẹn anh lần sau!”.
Rồi
ông lại cầm chiếc khèn, tay mân mê như để tìmlại những tháng ngày xưa cũ.
Lúc
chia tay, chị Lê ThịHương, con dâu út của ông Công bộc bạch rằng: “Ông rất
buồn, vì cả đời hoạt độngsôi nổi, nay đau yếu bệnh tật sẽ không tránh được nỗi
cô đơn. Được nhà nướcphong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian nhưng ông vẫn
không được chế độ đãi ngộgì”.
Vượt
cầu treo trở lại Thịtrấn Hòa Bình, đây là một thế giới hoàn toàn khác hẳn, nó
không còn vẻ hoang sơ,hiu hắt như bản Chắn, nơi có một nghệ nhân dân gian đang
sống nốt những ngàytháng cuối đời trong nỗi cô đơn, khắc khoải...