Bộ
sáo khủng
Tôi
bất ngờ ghé thăm tư gia của võ sư Trịnh Như Quân giữa thành phố Bắc Giang vào
lúc ông vừa đi in bản nhạc “Khúc hát sông quê” để tập luyện cho chương trình
biểu diễn xuân Nhâm Thìn. Năm nay, ông đã ở cái tuổi lục tuần, tóc lơ phơ bạc
nhưng dáng đi của con nhà võ hãy còn nhanh nhẹn, đôi mắt tinh anh, giọng nói
sang sảng và phong độ đi quyền múa sáo, lấy hơi thổi hàng trăm ca khúc vẫn chưa
hề có dấu hiệu của tuổi tác.
Trên
chiếc chõng tre đặt giữa nhà là cây sáo sắt mới trình làng của ông. Ngắm nghía cây
sáo mà tôi không khỏi ngạc nhiên về sự kỳ dị. Sáo là nhạc cụ, nó có thể bằng
tre, bằng trúc nhưng đằng này lại được rèn bằng sắt, dài quá đầu người trưởng
thành, nặng ngang xà beng thì đúng là “của độc”. Không thẳng thớn như bình
thường, cây sáo còn uốn lượn như rồng, như rắn với những đường cong mềm mại
khiến người ta “mắt chữ A, mồm chữ O” vì kinh ngạc.
Cười
hà hà, ông bảo: “Nhìn cây sáo nhỏ nhắn nhưng nó nặng tới năm kg và dài tới hai mét.
Năm nay là năm Thìn nên cây sáo được chế tạo tựa theo dáng rồng lượn. Rồng là
biểu tượng của sự cao quý, của sức sống vĩnh hằng và sức mạnh vũ trụ. Lại là
rồng thời Lý với những đặc điểm đầu rùa, mình trơn. Tôi lựa chọn nó bởi lẽ đất
Kinh Bắc chính là nơi phát tích của vương triều Lý huy hoàng trong lịch sử”.
Ngoài
cây sáo rồng mới ra lò, ông còn sở hữu những cây sáo sắt mà không ai có thể
nghi ngờ gì về kỷ lục lớn, nặng nhất của nó. Từ cây sáo bằng sắt nặng dưới 1
kg, ông đã “nâng đời”, rèn một cây sáo có tên “Giọt mưa thu” nặng 2.8 kg, dài
1m, có độ dày đến 0,5cm; một cây tên là “Tiêu Tương”, dài 1,6m - nặng 4 kg; một
cây tên là “Cõi Thiên Thai” nặng 3,5 kg...Mỗi cây đều được đặt tên theo những
ca khúc nỗi tiếng của Đặng Thế Phong, Văn Cao...
Để
có được những cây sáo xếp vào hàng “độc nhất vô nhị”, võ sư Quân đã phải “lao
tâm khổ tứ” nhiều tháng ròng để rèn rũa những cái cọc xà beng khổng lồ thành
một cây sáo đích thực. Việc chế táo sáo bằng những cây sắt “khủng” bất chấp
những nguyên tắc thông thường của vật lý, hóa học trong chế tạo nhạc cụ. Thế mà
âm thanh của tiếng sáo sắt tạo ra rất khỏe, hơn hẳn các chất liệu khác.
Ông
Quân lùng mua thứ sắt thép đặc biệt, rồi đặt hàng rèn sáo tại một lò rèn nổi
tiếng ở làng thép Đa Hội, Bắc Ninh, nơi từng luyện kiếm khét tiếng xưa kia. Sáo
liền khối, không chắp nối mà vẫn đảm bảo những tiêu chuẩn về âm nhạc. Chữ Nho,
hình cánh chim Lạc dọc trên thân sáo được khắc tinh sảo. Chữ trên thân sáo là
của ông giám đốc Bảo tàng Bắc Giang, nét khắc của một nghệ nhân đã từng khắc
chữ trên bia đá Văn Miếu, đủ thấy ông Quân công phu với những đứa con tinh thần
như thế nào.
Rồi
ông còn khoan lỗ sáo, chỉnh âm-cái công việc vốn dĩ đòi hỏi một năng khiếu âm
nhạc và đôi tài thỉnh âm cực kỳ tinh nhạy. Có như thế những nốt nhạc phát ra
mới tròn vành, mới có thể hòa nhạc điện tử và đáp ứng tốt những tiêu chuẩn quốc
tế. Vui chén trà, ông bảo: “Sáo có kích thước khủng nên không ít lần tôi đã dở
khóc, dở cười với chúng. Có lần không được cho lên xe khách, có lần bị cấm vào
nơi biểu diễn vì người ta tưởng mình mang theo vũ khí...”
Trịnh
Như Quân và Hà Phương Thọ tạo nên một “cặp bài trùng”.
Tuyệt
kỹ võ sáo
Ăn
vội bữa trưa với cơm nếp, muối vừng trên chiếc chõng tre, võ sư Trịnh Như Quân
kéo tôi tới một khu “điền trang” của một đại gia giàu có, nơi ông đã biểu diễn
quen mặt. Cầm cây sáo rồng ra xe, ông bảo: “Cái thứ võ sáo tinh diệu lẫn âm
thanh vi vu từ cây sáo sắt phải được biểu diễn ở một khung cảnh đẹp. Đó là
không gian thâm nghiêm, cổ kính của chùa Bổ hay nơi non xanh, nước biếc, có đá,
có suối giữa thiên nhiên thì mới có thể cảm nghiệm hết được”.
Đứng
thế tấn trên một đồi cỏ giữa khu điền trang, võ sư Quân áo cổ tròn, cài khuy của
con nhà võ, nhẹ nhàng nâng cây sáo sắt lên ngang vai, rồi bất thần xoay mình
chuyển thế, cây sáo vèo vèo, tiếng gió rít đến lạnh gáy người thưởng, vút lên
trong không trung, rồi bổ một cú như trời giáng xuống nền cỏ tạo thành vết lõm.
Với 53 chiêu thức võ công được biến hoá để tạo sức công phá cho sáo sắt, bài võ
“Bóng trăng Phồn Xương” thật sự có sức sát thương mạnh mẽ.
Những
thế võ sáo ảo diệu, tinh vi, đạt đến trình độ tuyệt kỹ mà đằng sau đó là một nội
công thâm hậu lẫn bản lĩnh dũng mãnh của người luyện võ. Thành công ngày hôm
nay của võ sư Trịnh Như Quân là kết quả của những năm tháng miệt mài khổ luyện
dưới bóng trăng rừng Phe. Năm 1991, trong một lần đi điền dã sưu tầm các bài võ
cổ, vào bản Rừng Phe, gặp được cụ Triệu Quốc Uý-truyền nhân cuối cùng của bài
sáo võ “Bóng trăng Phồn Xương”-ông Quân đã ngay lập tức bị hút hồn bởi tuyệt kỹ
sáo võ Yên Thế.
Tương
truyền đây chính là ngón võ sở trường và đam mê của chính Hùm xám Hoàng Hoa
Thám. Thế võ biến hóa vừa là một cây sáo chơi “nhạc” vừa là một thứ vũ khí khi
xung phong giữa trận tiền đã khiến cho bao quân địch kinh hồn bạt vía giữa núi
rừng Yên Thế. Thời gian trôi đi, thế võ “thiết địch” (sáo sắt) đã tưởng chìm
vào quên lãng với bao huyền thoại hư hư thực thực thì cũng là lúc ông Quân bỏ
công bỏ việc, bỏ nhà bỏ cửa vào rừng Phe “bái sư” luyện võ.
Suốt
nhiều ngày, nhiều tháng khổ luyện, lại sẵn năng khiếu và bản lĩnh võ thuật, ông
Quân đã học được cách tạo âm thanh và các ngón võ biến ảo của cây sáo sắt lạnh
ngắt. Đến năm 1993, ông Quân bắt đầu biểu diễn bài “Bóng trăng Phồn Xương” và
sáo võ đá chính thức được ghi vào “Sổ tay võ thuật toàn quốc”, các chiêu võ sáo
đã đoạt nhiều giải đặc biệt trong các hội diễn thể thao trong cả nước. Tháng
6/2008, ông cùng võ sáo Việt Nam đã được trao giải nhì trong “Liên hoan điện
ảnh và truyền hình thể thao quốc tế - FICTS Việt Nam lần thứ IV”.
Xà
beng biết hát
Nếu
chỉ biểu diễn võ sáo thông thường thì cây sáo sắt cũng chả khác gì những cây
gậy, cây kiếm, điều đặc biệt ở đây là võ sư Trịnh Như Quân còn khổ luyện biểu
diễn thành công biến tác phẩm của mình thành những cái “xà beng biết hát”,
“rồng sắt biết hát” làm say đắm bao người hâm mộ khắp trong và ngoài nước.
Đưa
cây sáo sắt lạnh ngắt lên ngang môi, ông Quân đắm đuổi thổi. Kỳ lạ, chỉ riêng
cái việc vác sáo lên vai đã khiến người khác ê ẩm cả người, mà ông Quân chơi đủ
cả kim cổ giao duyên. Đến đoạn của Đặng Thế Phong: “Giọt mưa thu/ thánh thót
rơi/ trời lắng u hoài/ mây hắt hiu ngừng trôi”, tiếng sáo vẫn bay bổng giữa
trời khiến người xem không ngừng vỗ tay khen ngợi.
Niềm
say mê âm nhạc như đã ngấm vào máu, cho đến nay võ sư Trịnh Như Quân có thể
biểu diễn hàng trăm bài hát mà không cần nhìn bản nhạc. Từ Tiếng sáo người lính
trẻ, Ngày hội non sông, Làng Tôi, Đàn Chim Việt cho tới những: Suối mơ, Thiên thai,
Giọt mưa thu, Con thuyền không bến, Một cõi đi về...ông đều có thể biểu diễn
một cách thành thục như đã “in vào trong não”.
Quả
thực lúc đầu tôi không dám nghĩ, cái cây sáo sắt nặng như xà beng, uốn lượn như
rồng kia lại có thế phát ra tiếng nhạc, mà lại do một ông đã sáu mươi tuổi
biểu. Thế nhưng xem ông biểu diễn mới thấy sức “thổi hơi” của ông khỏe thật,
gân cốt lẫn nội công của ông quả là thâm hậu. Tôi hiểu rằng, cái khả năng ấy
không phải chỉ đơn thuần do luyện tập mà có mà còn do tình yêu với âm nhạc,
tình yêu với thứ võ cổ truyền của dân tộc.
Tâm
sự trước khi tiễn khách, ông Quân bảo: Cho đến bây giờ sau gần hai chục năm
biểu diễn võ sáo, niềm vui nho nhỏ của ông là vừa rồi gặp được một người có thể
hát thành công những ca từ của cây sáo sắt. Người nghệ sĩ nghiệp dư Hà Phương
Thọ sau những tháng ngày được ông rèn rũa đã tạo nên một “cặp bài trùng” cùng
cây sáo sắt. “Chính nhờ có tiếng hát mạnh như gươm đao, lạnh như kim khí của
Phương Thọ mà tiếng sáo sắt như được thăng hoa hơn”.